LIÊN MINH HỢP TÁC XÃ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Số: 157/BC-LMHTX | | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Đà Nẵng, ngày 26 tháng 7 năm 2022 |
BÁO CÁO
Đề xuất góp ý Dự thảo lần 2 Luật Hợp tác xã (sửa đổi)
Kính gửi: Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.
Thực hiện sự chỉ đạo của Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Liên minh Hợp tác xã Việt Nam khóa VI, nhiệm kỳ 2020 - 2025 vào ngày 14, 15 tháng 7 năm 2022 tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa về việc tiếp tục góp ý Dự thảo lần 2 Luật Hợp tác xã (sửa đổi) và Chương trình công tác toàn khóa của Ban Chấp hành Liên minh Hợp tác xã thành phố Đà Nẵng khóa VI, nhiệm kỳ 2020 - 2025; ngày 22 tháng 7 năm 2022, tại Khách sạn Saigontourane, số 05 đường Đống Đa, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Ban Chấp hành Liên minh Hợp tác xã thành phố Đà Nẵng khóa VI, nhiệm kỳ 2020 - 2022 tiến hành Phiên họp lần thứ 5 nhằm sơ kết đánh giá tình hình kinh tế tập thể và hoạt động của Liên minh Hợp tác xã thành phố Đà Nẵng 6 tháng đầu năm 2022, thống nhất nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2022; đồng thời, tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo Báo cáo góp ý Dự thảo lần 2 Luật Hợp tác (sửa đổi). Sau đây là nội dung báo cáo đề xuất góp ý Dự thảo lần 2 Luật Hợp tác xã (sửa đổi).
Phần thứ nhất;
TÌNH HÌNH THI HÀNH LUẬT HỢP TÁC XÃ NĂM 2012
Luật Hợp tác xã năm 2012 được ban hành, có hiệu lực và đi vào cuộc sống đã mang đến sự đổi mới khá toàn diện đối với kinh tế tập thể, hợp tác xã trên cả nước nói chung và Đà Nẵng nói riêng, đặc biệt Luật Hợp tác xã năm 2012 đã xác lập được mô hình hợp tác xã kiểu mới với bản chất và đặc điểm ưu việt hơn so với hợp tác xã kiểu cũ. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy Luật Hợp tác xã năm 2012 đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, trở thành rào cản phát triển hợp tác xã, cụ thể như: quy định về góp vốn thành viên, quy định về số lượng thành viên để thành lập hợp tác xã, quy định về chấm dứt tư cách thành viên trong trường hợp thành viên không sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã; quy định về tỷ lệ cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ và việc làm của hợp tác xã cho khách hàng không phải là thành viên hợp tác xã và quy định về nguyên tắc phân phối thu nhập của thành viên hợp tác xã là chưa hợp lý. Đồng thời, Luật Hợp tác xã năm 2012 chưa quy định về vai trò, vị trí pháp lý, các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia mô hình hoạt động của hợp tác xã (các đối tượng thành viên, người lao động trong hợp tác xã), do đó, Luật Hợp tác xã năm 2012 chưa thực sự tạo ra động phát triển và chưa thu hút thành viên góp vốn để đầu tư phát triển hợp tác xã.
Phần thứ hai;
ĐỀ XUẤT GÓP Ý DỰ THẢO LẦN 2 LUẬT HỢP TÁC XÃ (SỬA ĐỔI)
(sau đây gọi tắt là Dự thảo Luật)
Chương 1
ĐỀ XUẤT GÓP Ý NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỤ THỂ
Vấn đề 1. Về tên gọi Dự thảo Luật
Cơ bản thống nhất như Dự thảo Luật nhưng nên bỏ chữ “các” và viết lại thành “Luật tổ chức kinh tế hợp tác” là vừa phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế và định hướng sau này thành lập Bộ Kinh tế hợp tác (ở Trung ương) và Sở Kinh tế hợp tác (ở địa phương), vừa có nội hàm bao quát hết phạm vi, đối tượng điều chỉnh của các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác (hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên đoàn hợp tác xã, tổ hợp tác…)
Vấn đề 2. Độ dài của Dự thảo Luật
Về độ dài Dự thảo Luật đang lấy ý kiến có gần 100 trang là quá dài, điều này làm cho người dân, nhất là tầng lớp nông dân và một bộ phận lớn người dân có trình độ thấp trong khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận, thực hiện. Do đó, kiến nghị Ban Soạn thảo Dự án Luật nghiên cứu, rút ngắn độ dài của Dự thảo Luật càng ngắn càng tốt, những vấn đề chưa thật cần thiết thì nên đưa vào Nghị định của Chính phủ để hướng dẫn thi hành, nhằm tạo điều kiện cho người dân dễ dàng tiếp cận, thực hiện, đồng thời tạo sự chủ động, linh hoạt trong việc triển khai, thực hiện.
Vấn đề 3. Bố cục Dự thảo Luật
Về bố cục Dự thảo Luật đang lấy ý kiến gồm có 05 phần, 15 chương, 120 điều, trong đó có phần chỉ có một chương, một vài điều là không cần thiết. Do đó, kiến nghị Ban Soạn thảo Dự án Luật nghiên cứu, xây dựng bố cục Dự thảo Luật ngắn gọn hơn, có thể rút gọn xuống còn 07 chương (bỏ bố cục chia theo 05 phần), cụ thể gồm có 07 chương như sau:
Chương 1. Những quy định chung
Chương 2. Tổ chức kinh tế hợp tác
Chương 3. Các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác (hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên đoàn hợp tác xã, tổ hợp tác). Kiến nghị chỉ nên quy định những vấn đề cơ bản về việc thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên đoàn hợp tác xã, tổ hợp tác; còn những vấn đề về tổ chức và hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên đoàn hợp tác xã, tổ hợp tác nên đưa vào Nghị định của Chính phủ để hướng dẫn thi hành.
Chương 4. Tổ chức đại diện, liên minh hợp tác xã
Chương 5. Chính sách hỗ trợ tổ chức kinh tế hợp tác
Chương 6. Quản lý nhà nước về tổ chức kinh tế hợp tác
Chương 7. Điều khoản thi hành.
Vấn đề 4. Về nội dung Dự thảo Luật
Nội dung Dự thảo Luật đang lấy ý kiến là rất dàn trải, do đó, Kiến nghị Ban Soạn thảo Dự án Luật cần tập trung làm rõ những vấn đề cốt lõi của Dự thảo Luật, nhất là làm rõ quy định về tổ chức kinh tế hợp tác (chương 2); về vai trò, vị trí, địa vị pháp lý của liên minh hợp tác xã (chương 4); về chính sách hỗ trợ kinh tế hợp tác (chương 5) và về quản lý nhà nước đối với tổ chức kinh tế hợp tác (chương 6).
Vấn đề 5. Quy định về thành viên của tổ chức kinh tế hợp tác
Theo như Dự thảo Luật quy định về thành viên, người lao động trong tổ chức kinh tế hợp tác là chưa làm rõ vai trò, vị trí pháp lý, quyền lợi và nghĩa vụ của thành viên, người lao động trong tổ chức kinh tế hợp tác. Do đó, kiến nghị cần phải xem xét lại các quy định về thành viên, người lao động trong tổ chức kinh tế hợp tác để làm rõ hơn.
Vấn đề 6. Kiến nghị xem xét quy định về “thành viên chính thức” phải đáp ứng đồng thời 02 điều kiện: “góp vốn và sử dụng sản phẩm, dịch vụ của tổ chức kinh tế hợp tác hoặc góp sức lao động” (quy định tại khoản 20 Điều 4 Dự thảo Luật).
Quy định này là không khả thi, bởi vì, trên thực tế đã có nhiều thành viên góp vốn nhưng không sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã trong thời gian rất dài, vi phạm quy định Luật HTX năm 2012 nhưng vẫn không thể xử lý chấm dứt tư cách thành viên được do đây là thành viên góp vốn. Bên cạnh đó, Dự thảo Luật còn quy định bổ sung thêm điều kiện “hoặc góp sức lao động”. Theo đó, “góp sức lao động là việc thành viên tham gia xây dựng tổ chức kinh tế hợp tác dưới các hình thức trực tiếp quản lý, trực tiếp lao động, sản xuất, kinh doanh, tư vấn, môi giới và các hình thức tham gia lao động khác” (tại khoản 10 Điều 4 Dự thảo Luật), giải thích từ ngữ này là chưa rõ do không phân biệt rõ giữa thành viên và người lao động của tổ chức kinh tế hợp tác.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng về tổ chức và hoạt động của kinh tế tập thể là phải bảo đảm nguyên tắc tự nguyện và phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của thành viên; đồng thời, phải tôn trọng bản chất, giá trị, nguyên tắc tự nguyện của kinh tế tập thể (theo Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16-6/2022 Hội nghị TW5 kháo XIII của Đảng), do đó, các quy định liên quan đến thành viên của tổ chức kinh tế hợp tác là đều phải được tôn trọng đề cao nguyên tắc tự nguyện của thành viên và phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của thành viên.
Như vậy, khi thành viên chính thức đã thực hiện hoàn thành nghĩa vụ góp vốn theo cam kết và theo quy định của pháp luật và điều lệ của tổ chức kinh tế hợp tác (quy định về mức vốn góp tối đa và tối thiểu) là thành viên đã xác lập đầy đủ quyền sở hữu, quyền lợi ích và tư cách thành viên của họ trong tổ chức kinh tế hợp tác. Đây là vấn đề cốt lõi của việc xác lập tư cách thành viên chính thức (thành viên góp vốn); do đó, không nên quy định thêm điều kiện nào nữa để ràng buộc thành viên chính thức phải thực hiện, nhằm bảo đảm nguyên tắc tự nguyện của thành viên và nhu cầu thực tế của thành viên, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức kinh tế hợp tác thu hút, phát triển thành viên và huy động vốn góp của thành viên để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.
Từ quan điểm, nhận thức trên; dó đó, kiến nghị bỏ quy định về thành viên chính thức phải “sử dụng sản phẩm, dịch vụ của tổ chức kinh tế hợp tác hoặc góp sức lao động” (quy định tại khoản 20 Điều 4 Dự thảo Luật), nhằm tạo điều kiện cho tổ chức kinh tế hợp tác phát triển.
Vấn đề 7. Kiến nghị xem xét quy định về “thành viên liên kết có góp vốn”. Theo đó, thành viên liên kết có góp vốn là thành viên chỉ góp vốn, không sử dụng sản phẩm, dịch vụ và không góp sức lao động (quy định tại khoản 22 Điều 4 Dự thảo Luật).
Quy định này thực chất là quy định về thành viên góp vốn (thành viên chính thức). Tuy nhiên, thành viên góp vốn nhưng không được phân phối thu nhập (chia lợi nhuận) theo điểm b) khoản 1 Điều 67 Dự thảo Luật và không được quyền tham gia quản lý tổ chức kinh tế hợp tác, cụ thể là: không được tham dự hoặc bầu đại biểu tham dự đại hội, hội nghị thành viên; không được biểu quyết; không được ứng cử, đề cử để đại hội, hội nghị bầu vào các chức danh, chức vụ; không được kiến nghị, yêu cầu… theo điểm d) đ) e) g) khoản 1 Điều 67 Dự thảo Luật là không hợp lý, không tạo động lực để thu hút thành viên góp vốn, mà còn tạo ra rào cản phát triển của tổ chức kinh tế hợp tác, đi ngược quan điểm chỉ đạo của Đảng “Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế là trọng tâm” (theo Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16-6-2022 Hội nghị TW5 khóa XIII của Đảng).
Do đó, kiến nghị sửa đổi quy định “thành viên liên kết có góp vốn” thành “thành viên chính thức” nếu thành viên đáp ứng nhu cầu góp vốn để tìm kiếm lợi nhuận và để trở thành người chủ thực sự của tổ chức kinh tế hợp tác.
Vấn đề 8. Kiến nghị xem xét quy định về “thành viên liên kết không góp vốn”. Theo đó, thành viên liên kết không góp vốn là thành viên đóng phí thành viên liên kết, không góp vốn và đáp ứng ít nhất một trong hai điều kiện: a) Sử dụng sản phẩm, dịch vụ của tổ chức kinh tế hợp tác; b) Góp sức lao động (quy định tại khoản 21 Điều 4 Dự thảo Luật).
Quy định này thực chất là quy định về thành viên liên kết. Do đó, kiến nghị bỏ cụm từ “không góp vốn” đi liền theo sau cụm từ “thành viên liên kết” cho rõ nghĩa. Tuy nhiên, việc quy định thành viên liên kết mà có đóng “phí thành viên” thì chỉ nên quy định trong lĩnh vực phi nông nghiệp, còn lĩnh vực nông nghiệp thì không nên.
Vấn đề 9. Đề xuất dành riêng một chương (Chương 2) quy định về “tổ chức kinh tế hợp tác” theo quan điểm chỉ đạo của Đảng (tại Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18-3-2002 và Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16-6-2022); trong đó, cần tập trung làm rõ mô hình hoạt động của tổ chức kinh tế hợp tác.
Vấn đề 10. Kiến nghị xem xét các quy định về lợi nhuận, thặng dự, thu nhập theo khoản 13, 23, 25 Điều 4 Dự thảo Luật. Theo đó: “Lợi nhuận là số hiệu doanh thu trừ đi chi phí của giao dịch bên ngoài”; “Thặng dư là hiệu số doanh thu trừ đi chi phí của giao dịch bên trong” và “Thu nhập là tổng thặng dư và lợi nhuận của tổ chức kinh tế hợp tác trong một năm tài chính”.
Với các quy định như Dự thảo Luật đã nêu là rất khó hiểu và rất khó thực hiện. Qua nghiên cứu thực tiễn cho thấy, vấn đề thu nhập trong tổ chức kinh tế hợp tác là hoàn toàn không giống như Dự thảo Luật quy định, kể cả quy định về phân phối thu nhập theo Luật Hợp tác xã năm 2012 thì lâu nay vẫn không thực hiện được trên thực tế.
Do đó, kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định để làm rõ hơn về “Lợi nhuận” và “Thu nhập” (tại khoản 13, 25 Điều 4 Dự thảo Luật); đồng thời, kiến nghị bỏ quy định về “Thặng dự” (tại khoản 23 Điều 4 Dự thảo Luật) và bỏ toàn bộ nội dung quy định tại Điều 59 Dự thảo Luật về phân phối thu nhập, nhằm tạo điều kiện cho thành viên, người lao động trong tổ chức kinh tế hợp tác dễ dàng tiếp cận, thực hiện.
Vấn đề 11. Góp ý quy định về vốn góp của thành viên
1. Đối với quy định về mức vốn góp tối đa của thành viên là hoàn toàn thống nhất như Dự thảo Luật quy định. Theo đó, hợp tác xã là không quá 30 % vốn điều lệ, liên hiệp hợp tác xã là không quá 40% vốn điều lệ.
2. Về quy định mức vốn góp tối thiểu của thanh viên cơ bản thống nhất như Dự thảo Luật quy định. Theo đó, “Mức vốn góp tối thiểu là số vốn mà cá nhân hoặc pháp nhân phải góp vào vốn điều lệ” để trở thành “thành viên chính thức” (thành viên góp vốn) của tổ chức kinh tế hợp tác. Tuy nhiên, kiến nghị bổ sung quy định “Mức vốn góp tối thiểu do điều lệ tổ chức kinh tế hợp tác quy định”.
Chương 2
ĐỀ XUẤT DÀNH RIÊNG MỘT CHƯƠNG QUY ĐỊNH VỀ
“TỔ CHỨC KINH TẾ HỢP TÁC”
Điều 1. Tổ chức kinh tế hợp tác
1. Tổ chức kinh tế hợp tác là hình thức tổ chức kinh tế tập thể với nhiều hình thức tổ chức liên kết, hợp tác đa dạng (hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên đoàn hợp tác xã, tổ hợp tác…), mà nòng cốt là hợp tác xã, dựa trên sở hữu của thành viên và sở hữu tập thể, liên kết, hợp tác rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn về quy mô, lĩnh vực ngành nghề và địa bàn hoạt động (trừ một số lĩnh vực có quy định riêng); phân phối thu nhập theo lao động, theo vốn góp, theo mức độ tham gia dịch vụ và hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Thành viên của tổ chức kinh tế hợp tác bao gồm các cá nhân và pháp nhân, cả người ít vốn và nhiều vốn, cùng góp vốn, góp sức trên cơ sở tự nguyện và quản lý theo nguyên tắc dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi.
2.“Góp sức” có nghĩa là liên kết, hợp tác để tạo nên sức mạnh tập thể, đồng thời tạo ra tiềm năng, lợi thế riêng của tổ chức kinh tế hợp tác.
3. Tổ chức kinh tế hợp tác gồm có: tổ chức kinh tế hợp tác có tư cách pháp nhân (hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên đoàn hợp tác xã) và tổ chức kinh tế hợp tác không có tư cách pháp nhân (tổ hợp tác). Các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác có mối quan hệ với nhau, tạo ra hệ sinh thái thúc đẩy kinh tế hợp tác phát triển.
4. Các chủ thể tham gia mô hình hoạt động của tổ chức kinh tế hợp tác gồm có: “thành viên chính thức”, “thành viên liên kết” và “người lao động” (sau đây còn được gọi là các đối tượng thành viên, người lao động của tổ chức kinh tế hợp tác).
Điều 2. Thành viên, người lao động của tổ chức kinh tế hợp tác
1. Thành viên chính thức
a) Thành viên chính thức là thành viên có nhu cầu góp vốn để tìm kiếm lợi nhuận và để trở thành người chủ thực sự của tổ chức kinh tế hợp tác (sau đây còn được gọi là thành viên góp vốn).
b) Thành viên chính thức phải có nghĩa vụ góp vốn điều lệ theo cam kết và theo quy định của pháp luật và điều lệ của tổ chức kinh tế hợp tác (quy định về mức vốn góp tối đa và tối thiểu). Trong quá trình hoạt động, nếu thừa vốn so với quy định về mức vốn góp tối đa thì được trả lại cho thành viên, nếu thiếu vốn so với quy định về mức vốn góp tối thiểu thì thành viên phải có nghĩa vụ góp vốn bổ sung, nếu không góp vốn bổ sung thì thành viên không còn quyền tham gia quản lý tổ chức kinh tế hợp tác.
c) Thành viên chính thức (thành viên góp vốn) có thể là những người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế (cá nhân, pháp nhân) cùng có chung nhu cầu về lợi ích và quyền làm chủ của mình trong tổ chức kinh tế hợp tác.
d)) Thành viên chính thức phải được bảo đảm đầy đủ các quyền tham gia quản lý tổ chức kinh tế hợp tác và lợi ích của thành viên.
Đây là vấn đề cốt lõi về nguyên tắc tự nguyện và nhu cầu thực tế của thành viên chính thức.
2. Thành viên liên kết
a) Thành viên liên kết là thành viên có nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ (đầu vào, đầu ra) với tổ chức kinh tế hợp tác.
b) Thành viên liên kết bao gồm những người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế (cá nhân, pháp nhân) cùng có chung nhu cầu về lợi ích, việc làm và thu nhập.
c) Thành viên liên kết là khách hàng của tổ chức kinh tế hợp tác.
3. Người lao động trong tổ chức kinh tế hợp tác
a) Người lao động là người có nhu cầu làm việc trong tổ chức bộ máy quản lý, điều hành, hoạt động của tổ chức kinh tế hợp tác, là người làm công hưởng lương, thực hiện theo quy định pháp luật về lao động.
b) Người lao động của tổ chức kinh tế hợp tác có thể là thành viên chính thức, thành viên liên kết và thuê ngoài.
Điều 3. Nghĩa vụ phải thực hiện để xác lập tư cách của thành viên, người lao động trong tổ chức kinh tế hợp tác
1. Tư cách thành viên chính thức của tổ chức kinh tế hợp tác được xác lập là khi thành viên đã thực hiện hoàn thành nghĩa vụ góp vốn điều lệ theo cam kết và theo quy định của pháp luật và điều lệ của tổ chức kinh tế hợp tác (quy định về mức góp vốn tối đa và tối thiểu).
2. Tư cách thành viên liên kết của tổ chức kinh tế hợp tác được xác lập là khi thành viên đã thực hiện hoàn thành việc ký kết hợp đồng dịch vụ với tổ chức kinh tế hợp tác và phải có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng dịch vụ đã được ký kết.
3. Tư cách người lao động trong tổ chức kinh tế hợp tác được xác lập là khi người lao động đã thực hiện hoàn thành việc ký kết hợp đồng lao động với tổ chức kinh tế hợp tác và phải có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng lao động đã được ký kết.
Điều 4. Quyền lợi của thành viên, người lao động trong tổ chức kinh tế hợp tác
1. Quyền lợi của thành viên chính thức
a) Quyền tham gia quản lý của thành viên chính thức
- Được tham dự đại hội, hội nghị thành viên hoặc bầu đại biểu tham dự đại hội, hội nghị thành viên theo quy định của pháp luật và điều lệ của tổ chức kinh tế hợp tác (nếu tổ chức kinh tế hợp tác có số lượng thành viên góp vốn lớn theo quy định của pháp luật và điều lệ);
- Được phát biểu ý kiến và biểu quyết tại đại hội, hội nghị thành viên, cuộc họp hội đồng quản trị, ban kiểm soát (nếu được bầu làm thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát) của tổ chức kinh tế hợp tác;
- Được ứng cử, đề cử thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên và các chức danh khác được bầu của tổ chức kinh tế hợp tác;
- Được kiến nghị, yêu cầu hội đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng giám đốc, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên giải trình về tổ chức và hoạt động của tổ chức kinh tế hợp tác;
- Được yêu cầu hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên triệu tập đại hội, hội nghị thành viên bất thường;
- Được cung cấp đầy đủ thông tin về tổ chức và hoạt động của tổ chức kinh tế hợp tác.
- Được khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, còn có các quyền liên quan khác thì thực hiện theo quy định của pháp luật.
b) Lợi ích của thành viên chính thức
- Được chia lợi nhuận theo số vốn đã góp;
- Được trả lại phần vốn bị thừa so với quy định về mức vốn góp tối đa, được góp vốn bổ sung khi bị thiếu so với quy định về mức vốn góp tối thiểu để bảo đảm quyền tham gia quản lý tổ chức kinh tế hợp tác;
- Được biểu dương, khen thưởng khi có đóng góp thành tích xuất sắc cho tổ chức kinh tế hợp tác;
- Được hưởng các phúc lợi xã hội khác của tổ chức kinh tế hợp tác (nếu có);
- Được rút vốn góp, chuyển nhượng vốn góp, cho thừa kế vốn góp theo quy định của pháp luật và điều lệ của tổ chức kinh tế hợp tác.
Ngoài ra, còn có các lợi ích liên quan khác thì thực hiện theo quy định của pháp luật.
2. Quyền lợi của thành viên liên kết
- Được hưởng lợi ích từ giá dịch vụ (đầu vào, đầu ra) theo hợp đồng dịch vụ đã ký kết với tổ chức kinh tế hợp tác nhờ có sự liên kết, hợp tác “mua chung, bán chung”;
- Được hưởng lợi ích từ sự chia sẻ lợi ích của tổ chức kinh tế hợp tác cho thành viên nhờ quá trình thực hiện các khâu dịch vụ, sơ chế, chế biến, xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, xây dựng chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị, tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm của tổ chức kinh tế hợp tác;
- Được tạo ra việc làm và thu nhập nhờ có sự liên kết, hợp tác với tổ chức kinh tế hợp tác;
- Được hưởng các phúc lợi xã hội khác của tổ chức kinh tế hợp tác (nếu cso).
- Được cung cấp thông tin cần thiết về tổ chức và hoạt động của tổ chưc skinh tế hợp tác;
- Được tham dự và phát biểu ý kiến tại các hội nghị, cuộc họp của tổ chức kinh tế hợp tác (nếu được mời tham dự);
- Được biểu dương, khen thưởng khi có đóng góp thành tích xuất sắc cho tổ chức kinh tế hợp tác.
3. Quyền lợi của người lao động
a) Quyền lợi của người lao động
- Được hưởng lương, phụ cấp và các khoản thu nhập khác (nếu có) do tổ chức kinh tế hợp tác chi trả;
- Được thực hiện chế độ, chính sách (BHXH, BHYT…) của người lao động theo quy định của pháp luật;
- Được biểu dương, khen thưởng khi có đóng góp thành tích xuất sắc cho tổ chức kinh tế hợp tác;
- Được hưởng các phúc lợi xã hội khác của tổ chức kinh tế hợp tác (nếu có);
- Được cung cấp thông tin cần thiết về tổ chức và hoạt động của tổ chức kinh tế hợp tác;
- Được tham dẹ và phát biểu ý kiến tại các hội nghị, cuộc họp của tổ chức kinh tế hợp tác (nếu được mời tham dự).
Điều 5. Hình thức, nguyên tắc biểu quyết của tổ chức kinh tế hợp tác
Để tổ chức quản lý dân chủ và bình đẳng trong tổ chức kinh tế hợp tác, bảo đảm nguyên tắc đối nhân theo quan điểm chỉ đạo của Đảng (Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2020 Hội nghị TW5 khóa XIII), do đó, đề xuất bổ sung một điều khoản dành riêng cho việc quy định về hình thức, nguyên tắc biểu quyết của tổ chức kinh tế hợp tác. Nội dung đề xuất như sau:
1. Hình thức biểu quyết của tổ chức kinh tế hợp tác là biểu quyết bằng giơ tay hoặc bỏ phiếu kín do đại hội, hội nghị thành viên, cuộc họp hội đồng quản trị của tổ chức kinh tế hợp tác quyết định.
2. Nguyên tắc biểu quyết của tổ chức kinh tế hợp tác là mỗi thành viên tham dự đại hội, hội nghị thành viên, cuộc họp hội đồng quản trị của tổ chức kinh tế hợp tác được quyền biểu quyết một phiếu, phiếu biểu quyết có giá trị ngang nhau không phụ thuộc vào số vốn góp nhiều hay ít và không phụ thuộc vào chức danh, chức vụ trong tổ chức kinh tế hợp tác.
Tính ưu việt của tổ chức kinh tế hợp tác là không có thành viên chính thức nào thâu tóm chi phối toàn bộ hoạt động của tổ chức kinh tế hợp tác (tổ chức kinh tế đối nhân), đây là điểm khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác (tổ chức kinh tế đối vốn) nhờ có quy định về nghĩa vụ góp vốn của thành viên chính thức (tại điểm b, khoản 1, Điều 2, Chương 2 Văn bản này) và quy định về hình thức, nguyên tắc biểu quyết của tổ chức kinh tế hợp tác (tại Điểm 5 này); do đó, mô hình tổ chức kinh tế hợp tác luôn được tồn tại và phát triển từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Điều 6. Việc chấm dứt tư cách của thành viên, người lao động trong tổ chức kinh tế hợp tác
1. Việc chấm dứt tư cách thành viên chính thức của tổ chức kinh tế hợp tác là khi thành viên có đơn xin rút vốn hoặc xin chuyển nhượng vốn hoặc xin cho thừa kế vốn và được hội đồng quản trị tổ chức kinh tế hợp tác xem xét, đồng ý. Đối với thành viên có số vốn góp lớn (do điều lệ quy định) thì phải được đại hội, hội nghị thành viên thống nhất biểu quyết thông qua; ngoài ra, còn có các vấn đề liên quan khác thì thực hiện theo quy định của pháp luật và điều lệ của tổ chức kinh tế hợp tác.
2. Việc chấm dứt tư cách thành viên liên kết của tổ chức kinh tế hợp tác là khi thành viên không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng dịch vụ đã ký kết với tổ chức kinh tế hợp tác trong thời gian liên tục từ 02 năm trở lên (theo Luật HTX năm 2012).
3. Việc chấm dứt tư cách người lao động trong tổ chức kinh tế hợp tác thì thực hiện theo quy định pháp về lao động.
Điều 7. Các quy định liên quan khác về thành viên người lao động trong tổ chức kinh tế hợp tác
1. Thành viên chính thức
a) Thành viên chính thức muốn trở thành thành viên liên kết thì phải có ký kết hợp đồng dịch vụ (đầu vào, đầu ra) với tổ chức kinh tế hợp tác và phải có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng dịch vụ đã ký kết.
b) Thành viên chính thức muốn trở thành người lao động làm việc trong tổ chức bộ máy quản lý, điều hành, hoạt động của tổ chức kinh tế hợp tác thì phải đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn, vị trí việc làm và điều kiện tuyển dụng lao động của tổ chức kinh tế hợp tác và phải có ký kết hợp đồng lao động với tổ chức kinh tế hợp tác. Thành viên chính thức luôn được ưu tiên xét tuyển lao động hơn so với các đối tượng khác nếu cùng đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn, vị trí việc làm và điều kiện tuyển dụng lao động của tổ chức kinh tế hợp tác.
c) Đối với chức danh giám đốc hoặc tổng giám đốc của tổ chức kinh tế hợp tác do thành viên chính thức đảm nhiệm hoặc thuê ngoài. Quy trình thủ tục bổ nhiệm hoặc thuê ngoài thì thực hiện theo quy định của pháp luật.
2. Thành viên liên kết
a) Thành viên liên kết có ý nghĩa đối với lợi ích cộng đồng, việc phát triển thành viên liên kết càng nhiều thì lợi ích cộng đồng càng lớn.
b) Thành viên liên kết là đối tượng tiềm năng được quyền tham gia góp vốn để trở thành thành viên chính thức và được quyền tham gia ký kết hợp đồng lao động để trở thành người lao động làm việc trong tổ chức bộ máy quản lý, điều hành, hoạt động của tổ chức kinh tế hợp tác nếu thành viên đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn, vị trí việc làm và điều kiện tuyển dụng lao động của tổ chức kinh tế hợp tác.
3. Người lao động là đối tượng tiềm năng được quyền tham gia góp vốn để trở thành thành viên chính thức và được quyền ký kết hợp đồng dịch vụ (đầu vào, đầu ra) với tổ chức kinh tế hợp tác để trở thành thành viên liên kết của tổ chức kinh tế hợp tác.
4. Một chủ thể tham gia mô hình hoạt động của tổ chức kinh tế hợp tác có thể xác lập đồng thời cả ba tư cách thành viên, người lao động của tổ chức kinh tế hợp tác (vừa là chủ, vừa là khách hàng và vừa là người lao động); hoặc chỉ xác lập một hoặc đồng thời hai tư cách trong ba tư cách thành viên, người lao động của tổ chức kinh tế hợp tác đều được.
Tuy nhiên, thực tiễn để có được một thành viên vừa là chủ, vừa là khách hàng và thậm chí vừa là người lao động của một tổ chức kinh tế hợp tác thì đây là đối tượng thành viên lý tưởng mà chúng ta hướng đến nhưng trong thực tế thì trường hợp này chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ, không phải là phổ biến, do đó, nếu vận dụng luận điểm này trong việc quy định thành viên chính thức như Dự thảo Luật là không khả thi, vừa có tính áp đặt ràng buộc đối với thành viên chính thức, vừa đi ngược lại quan điểm chỉ đạo của Đảng về tổ chức và hoạt động của kinh tế tập thể là phải bảo đảm nguyên tắc tự nguyện của thành viên và phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của thành viên; đồng thời, “phải tôn trọng bản chất, giá trị, nguyên tắc hoạt động của kinh tế tập thể” có liên quan đến thành viên.
Điều 8. Thu nhập của thành viên, người lao động trong tổ chức kinh tế hợp tác
1. Thu nhập của thành viên chính thức
a) Được chia lợi nhuận theo số vốn đã góp sau khi đã được trích lập các quỹ theo quy định của pháp và điều lệ của tổ chức kinh tế hợp tác.
b) “Lợi nhuận” là số hiệu “doanh thu (dịch vụ đầu vào, đầu ra)” trừ đi “chi phí (chi phí sản xuất, kinh doanh; chi phí quản lý, lao động và các chi phí liên quan khác theo quy định của pháp luật và điều lệ của tổ chức kinh tế hợp tác)”.
2. Thu nhập của thành viên liên kết
a) Được hưởng thu nhập từ giá chênh lệch dịch vụ (đầu vào, đầu ra) theo hợp đồng dịch vụ đã được ký kết;
b) Được hưởng thu nhập từ sự chia sẻ lợi ích của tổ chức kinh tế hợp tác cho thành viên liên kết nhờ quá trình thực hiện các khâu dịch vụ… đã tạo ra giá trị gia tăng sản phẩm của tổ chức kinh tế hợp tác;
c) Được tạo ra việc làm và thu nhập cho thành viên nhờ sự liên kết, hợp tác của thành viên với tổ chức kinh tế hợp tác;
d) Được khen thưởng khi có thành tích xuất sắc đóng góp cho tổ chức kinh tế hợp tác;
đ) Được hưởng các phúc lợi xã hội khác của tổ chức kinh tế hợp tác (nếu có).
3. Thu nhập của người lao động
a) Được nhận lương, phụ cấp và các khoản thu nhập khác (nếu có) do tổ chức kinh tế hợp tác chi trả;
b) Được khen thưởng khi có thành tích xuất sắc đóng góp cho tổ chức kinh tế hợp tác;
c) Được hưởng các phúc lợi xã hội khác của tổ chức kinh tế hợp tác (nếu có).
Chương 3
GÓP Ý QUY ĐỊNH VỀ HỢP TÁC XÃ, LIÊN HIỆP HỢP TÁC XÃ,
LIÊN ĐOÀN HỢP TÁC XÃ, TỔ HỢP TÁC
Về quy định số lượng thành viên để thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên đoàn hợp tác xã, tổ hợp tác: Cơ bản thống nhất như Dự thảo Luật quy định nhưng kiến nghị bổ sung quy định “góp vốn” gắn liến với trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ thể thành viên khi tham gia thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên đoàn hợp tác xã, tổ hợp tác. Theo đó, viết lại là:
Điều 1. Hợp tác xã
1. Hợp tác xã là tổ chức kinh tế hợp tác, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 05 thành viên (cá nhân, pháp nhân) tự nguyện góp vốn thành lập nhằm mang lại lợi ích, tạo điều kiện thuận lợi cho thành viên phát triển sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần và góp phần xây dựng cộng đồng phát triển bền vững.
2. Hợp tác xã là thành viên của liên minh hợp tác xã cấp tỉnh, thành phố nơi hợp tác xã đăng ký.
3. Khuyến khích hợp tác xã thành lập hoặc tham gia liên hiệp hợp tác xã, liên đoàn hợp tác xã.
4. Chính phủ quy định chi tiết về tổ chức và hoạt động của hợp tác xã.
Điều 2. Liên hiệp hợp tác xã
1. Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế hợp tác có tư cách pháp nhân (nội dung đề xuất bổ sung), do ít nhất 03 hợp tác xã tự nguyện góp vốn thành lập nhằm mang lại lợi ích, tạo điều kiện thuận lợi cho thành viên mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực tham gia thị trường và góp phần xây dựng cộng đồng phát triển bền vững.
2. Liên hiệp hợp tác xã là thành viên của liên minh hợp tác xã cấp tỉnh nơi liên hiệp hợp tác xã đăng ký; đồng thời, là thành viên của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (nội dung đề xuất bổ sung).
3. Khuyến khích liên hiệp hợp tác xã thành lập hoặc tham gia liên đoàn hợp tác xã.
4. Chính phủ quy định chi tiết về tổ chức và hoạt động của liên hiệp hợp tác xã.
Điều 3. Liên đoàn hợp tác xã
1. Liên đoàn hợp tác xã là tổ chức kinh tế hợp tác có tư cách pháp nhân (nội dung đề xuất bổ sung), có quy mô cấp vùng, cấp quốc gia hoạt động trong lĩnh vực, ngành nghề nhất định, do ít nhất 05 liên hiệp hợp tác xã, hợp tác xã tự nguyện góp vốn thành lập nhằm mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh và năng lực xuất - nhập khẩu sản phẩm, dịch vụ phục vụ nhu cầu thành viên, đồng thời hỗ trợ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho thành viên của mình.
2. Liên đoàn hợp tác xã là thành viên của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.
3. Chính phủ quy định chi tiết về tổ chức và hoạt động của liên đoàn hợp tác xã.
Điều 4. Tổ hợp tác
1. Tổ hợp tác là tổ chức kinh tế hợp tác không có tư cách pháp nhân, được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác, gồm từ 02 thành viên (cá nhân, pháp nhân) trở lên tự nguyện góp vốn thành lập nhằm hợp tác phát triển sản xuất, kinh doanh (nội dung đề xuất bổ sung).
2. Hợp đồng hợp tác giữa các thành viên tổ hợp tác được ký kết và thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự.
3. Tổ hợp tác là mô hình hợp tác tiềm năng để hỗ trợ xây dựng và phát triển thành mô hình hợp tác xã bền vững (nội dung đề xuất bổ sung).
3. Chính phủ quy định chi tiết về tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác.
Chương 4
GÓP Ý QUY ĐỊNH VỀ LIÊN MINH HỢP TÁC XÃ
Quy định Điều 109 Dự thảo Luật về Liên minh hợp tác xã là chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong bối cảnh tình hình hiện nay. Bởi vì, kinh tế tập thể, hợp tác xã được Đảng và Nhà nước khẳng định là thành phần kinh tế quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, nhưng trên thực tế khu vực này còn gặp rất nhiều khó khăn mặc dù Luật Hợp tác xã đã qua ba lần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới. Tuy nhiên, đến nay khu vực này vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, nhất là việc xác lập tư cách của mỗi hình thức đối tượng thành viên, người lao động trong tổ chức kinh tế hợp tác chưa rõ, chưa tạo ra động lực để phát triển, nhận thức về mô hình hợp tác xã kiểu mới còn rất hạn chế nên rất cần có sự hỗ trợ xây dựng về tổ chức và hoạt động của mô hình hợp tác xã kiểu mới; đồng thời, rất cần có sự hỗ trợ và tạo điều kiện để tổ chức kinh tế hợp tác phát triển; trong đó, Liên minh Hợp tác xã là tổ chức đại diện các tổ chức kinh tế hợp tác, giữ vai trò nòng cốt trong phát triển kinh tế tập thể và làm cầu nối giữa Đảng và Nhà nước với thành phần kinh tế tập thể, đây có thể nói là nhiệm vụ chính trị quan trọng và thường xuyên của Liên minh Hợp tác xã, còn về thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức kinh tế hợp tác là một phần công việc rất nhỏ trong tổng thể công việc nhiệm vụ của Liên minh Hợp tác xã hiện nay; do đó, kiến nghị Ban Soạn thảo Dự án Luật cần phải làm rõ về vai trò, vị trí, địa vị pháp lý của Liên minh hợp tác xã: không phải là tổ chức hội quần chúng và cũng không phải là tổ chức hội có tính chất đặc thù, mà là tổ chức đại diện các tổ chức kinh tế hợp tác, làm cơ sở định hướng sau này chuyển đổi thành lập Bộ Kinh tế hợp tác (ở Trung ương) và Sở Kinh tế hợp tác (ở địa phương), để thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế tập thể là thành phần kinh tế quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới theo Nghị quyết 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 Hội nghị TW5 khóa XIII, theo đó, quan điểm chỉ đạo của Đảng là: “Củng cố, tăng cường hoạt động của hệ thống Liên minh Hợp tác xã là tổ chức đại diện của các tổ chức kinh tế tập thể, giữ vai trò nòng cốt và thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể, làm cầu nối giữa Đảng và Nhà nước với thành phần kinh tế tập thể, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; …đồng thời, nghiên cứu giao Liên minh Hợp tác xã thực hiện một số nội dung dịch vụ công phù hợp với quy định của pháp luật và chức năng, nhiệm vụ của Liên minh”.
Do vậy, kiến nghị Ban Soạn thảo Dự án Luật bỏ quy định về “Liên minh Hợp tác xã hoạt động theo các quy định của pháp luật về Hội” (tại Điều 109 Dự thảo Luật); đồng thời, kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định Điều 109 Dự thảo Luật về “Liên minh hợp tác xã” như sau:
1. Liên minh hợp tác xã là tổ chức đại diện các tổ chức kinh tế hợp tác do Đảng và Nhà nước thành lập và giao nhiệm vụ, được Nhà nước giao biên chế, cơ sở vật chất, phương tiện đi lại, làm việc và kinh phí để liên minh hợp tác xã hoạt động và thực hiện nhiệm vụ được giao.
2. Liên minh hợp tác xã hoạt động theo Luật tổ chức kinh tế hợp tác và các quy định của pháp luật về liên minh hợp tác xã. Chính phủ quy định chi tiết về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của hệ thống liên minh hợp tác xã.
3. Hệ thống liên minh hợp tác xã được tổ chức ở trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Cấp Trung ương là Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, cấp địa phương là Liên minh Hợp tác xã tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
4. Thành viên chính thức của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, bao gồm: Liên minh Hợp tác xã cấp tỉnh, thành phố; liên hiệp hợp tác xã, liên đoàn hợp tác xã và các tổ chức đại diện do các tổ chức kinh tế hợp tác tự nguyện thành lập trong phạm vi liên tỉnh, khu vực, vùng kinh tế (không thuộc phạm vị của một đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương).
5. Thành viên chính thức của Liên minh Hợp tác xã tỉnh, thành phố, bao gồm: Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác và các tổ chức đại diện do các tổ chức kinh tế hợp tác tự nguyện thành lập trong phạm vi của một đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, liên hiệp hợp tác xã là thành viên của liên minh hợp tác xã tỉnh, thành phố, đồng thời là thành viên của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.
6. Điều lệ tổ chức và hoạt động của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và liên minh hợp tác xã tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là có sự thống nhất về nội dung nhiệm vụ và tổ chức bộ máy. Điều lệ của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam được Đại hội đại biểu toàn quốc các tổ chức kinh tế hợp tác thông qua và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Điều lệ của liên minh hợp tác xã tỉnh, thành phố được đại hội đại biểu các tổ chức kinh tế hợp tác trên địa bàn tỉnh, thành phố thông qua và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố phê duyệt.
7. Đại hội Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và đại hội liên minh hợp tác xã tỉnh, thành phố là thống nhất trong nhiệm kỳ.
Chương 5
GÓP Ý VỀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ KINH TẾ HỢP TÁC
1. Về tiêu chí hỗ trợ kinh tế hợp tại Điều 112 Dự thảo Luật. Kiến nghị lấy vấn đề về “phát triển thành viên (bao gồm cả thành viên góp vốn và thành viên liên kết)” làm tiêu chí ưu tiên hàng đầu để xem xét, hỗ trợ. Theo đó, Nội dung kiến nghị sửa đổi, bổ sung cụ thể như sau:
- Tại điểm d) khoản 1 Điểu 112 Dự thảo Luật quy định: “Đáp ứng ít nhất một trong các tiêu chí sau: Kiến nghị bổ sung cụm từ “(bao gồm cả thành viên góp vốn và thành viên liên kết)” theo sau cụm từ “phát triển số lượng thành viên” và viết lại là: d) Đáp ứng ít nhất một trong các tiêu chí sau: phát triển số lượng thành viên (bao gồm cả thành viên góp vốn và thành viên liên kết); đồng thời, kiến nghị sửa đổi bỏ cụm từ “doanh thu của giao dịch nội bộ tăng lên”, thay vào đó là cụm từ “doanh thu (dịch vụ đầu vào, đầu ra) của tổ chức kinh tế hợp tác tăng lên”.
- Tại khoản 2 Điều 112 Dự thảo Luật quy định: “Ưu tiên cho tổ chức kinh tế hợp tác có nhiều thành viên hơn”, kiến nghị bổ sung cụm từ “(bao gồm cả thành viên góp vốn và thành viên liên kết)” theo sau cụm từ “Ưu tiên cho tổ chức kinh tế hợp tác có nhiều thành viên hơn” và viết lại là “Ưu tiên cho tổ chức kinh tế hợp tác có nhiều thành viên hơn (bao gồm cả thành viên góp vốn và thành viên liên kết)”.
2. Về nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước tại khoản 2 Điều 113 Dự thảo Luật. Kiến nghị bổ sung vấn đề về “vốn đối ứng của tổ chức kinh tế hợp tác, trên cơ sở vốn đối ứng đó được hình thành từ vốn góp của thành viên hoặc vốn đối ứng của thành viên (nếu hỗ trợ trực tiếp cho thành viên)” để xem xét “vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước”, nhằm khuyến khích, thúc đẩy thành viên góp vốn và tham gia góp vốn để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, kiến nghị bổ sung quy định về thời hạn xem xét chuyển quyền sở hữu tài sản có “vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước” trên tỷ lệ % vốn đối ứng của tổ chức kinh tế hợp tác hoặc thành viên của tổ chức kinh tế hợp tác (nếu hỗ trợ trực tiếp cho thành viên) để định ra thời hạn chuyển quyền sở hữu tài sản cho tổ chức kinh tế hợp tác hoặc cho thành viên của tổ chức kinh tế hợp tác, với mục đích là chuyển đổi tài sản có “vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước” (tài sản không chia) thành “tài sản được chia theo tỷ lệ góp vốn đối ứng cho thành viên, được bổ sung vào tỷ lệ vốn góp điều lệ của thành viên để chia lợi nhuận và được quyền thế chấp tài sản để vay vốn”, nhằm tạo thêm động lực phát triển và nâng cao trách nhiệm quản lý, sử dụng có hiệu quả về tài sản có “vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước” cho thành viên và cho tổ chức kinh tế hợp tác.
Trên đây là nội dung Báo cáo góp ý Dự thảo lần 2 Luật Hợp tác xã (sửa đổi), Liên minh Hợp tác xã thành phố Đà Nẵng kính báo cáo Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và các cấp, các ngành xem xét./.
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đoàn đại biểu quốc hội đơn vị Đà Nẵng; - UVTW Đảng, BT Thành ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH đơn vị Đà Nẵng Nguyễn Văn Quảng; - Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông; - Hội đồng nhân dân, UBND thành phố; - CT, các PCT Liên minh HTX Việt Nam; - CT, PCT UBND tp Trần Phước Sơn, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH đơn vị Đà Nẵng Trần Chí Cường; - Cục kinh tế hợp tác - Bộ Kế hoạch và Đầu tư; - Ban Chính sách PL - Liên minh HTX Việt Nam; - Cục trưởng, Phó cục Trưởng Cục Kinh tế hợp tác - Bộ KH&ĐT Đặng Văn Thanh; - Trưởng ban, Phó Trưởng ban Ban Chính sách PL - Liên minh HTX Việt Nam Dương Tuấn Cương; - Ban Pháp chế HĐND thành phố Đà Nẵng; - Sở KH&ĐT, Sở NN&PTNT, Sở Khoa học & CN, Sở Công thương, Sở Tư pháp, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Đà Nẵng; - Ủy viên BCH, UBKT Liên minh Hợp tác xã tp; - Các đơn vị trực thuộc; - Các hợp tác xã trên địa bàn thành phố; - Lưu: VT. | | TM. BAN CHẤP HÀNH CHỦ TỊCH Đã ký Phạm Công Chính |